Cuộc đời và sự nghiệp của Thomas Alva Edison (Phần I)

Phần I: Một nhà chính trị lưu vong
 Đầu thế kỷ thứ mười chín, một người đàn ông tên là Xa-mu-en Ê-đi-xơn, sau khi lưu lạc qua nhiều vùng ở ven hồ Ê-ri-ê đã định cư tại tỉnh Mi-lan, thuộc bang Ô-hi-ô. Ông là một nhà chính trị lưu vong từ bắc Ca-na-đa đến. Ở đấy, cuộc nổi dậy của tư sản Ca-na-đa, vì không biết dựa vào các chúa đất địa phương và sự liên kết với các nhà tư sản nhỏ bị chèn ép nên đã bị quân đội Anh dập tắt một cách khủng khiếp. Xa-mu-en Ê-đi-xơn cũng tham gia vào cuộc nổi dậy ấy, nên sau khi cuộc nổi dậy bị đàn áp, ông vội vàng trốn đi, sợ nếu bị bắt, tất sẽ phải chịu những hình phạt ghê gớm.
 Trên đường lưu lạc, ông đã trải qua biết bao gian lao, nguy hiểm, đã từng nhịn đói, chịu rét; đã từng đi bộ hàng trăm dặm đường. Để trốn thoát sang Hoa Kỳ, ông đã phải lén lút đi vào ban đếm không dám nghỉ, hướng theo các ngôi sao và bóng các ngọn cổ thụ của những cánh rừng già Ca-na-đa . Ông đã phải vất vả lần theo lối mòn của người địa phương và đã có lúc phải liều nhảy trên những tảng băng trôi để vượt sông…
 Ở Ca-na-đa, ông còn vợ và hai con. Gia sản của ông đã bị chính phủ Ca-na-đa tịch thu ngay sau lúc cuộc nổi dậy bị đàn áp. Vì thế, Xa-mu-en, dù thế nào chăng nữa, cũng phải tìm chốn sinh cơ lập nghiệp ở nơi khác. Ông dừng lại ở tỉnh lỵ Mi-lan, bên bờ hồ Hu-rôn. Ở đây dân cư hầu hết đều làm nghề chuyên chở ngũ cốc trên hồ từ các miền phì nhiêu về các miền phía đông cằn cỗi. Ngoài ra họ còn sinh sống bằng nghề buôn bán lúa mì và nghề chở đò dọc. Ở Ô-hi-ô hồi ấy chưa có đường sắt hoặc phương tiện giao thông, vận chuyển đường dài nào khác. Dọc theo hồ, có rất nhiều nhà kho chứa ngũ cốc. Các công trường sửa chữa tàu, thuyền cũng mọc lên san sát, dân cư có vẻ trù phù. Lúc đầu, Xa-mu-en Ê-đi-xơn mở một xưởng làm ngói gỗ là thứ ngói thuở ấy ai cũng ưa dùng để lợp nhà. Việc buôn bán của ông rất phát đạt.
 Ít lâu sau, cũng trong năm 1839, Xa-mu-en nhờ được một người bạn thân là thuyền trưởng An-va Bơ-rát-lây có tàu chạy trên hồ Ê-ri-ê đưa vợ con ông từ Ca-na-đa sang. Thế rồi ông chuyển sang buôn ngũ cốc. Ông là một người rất minh mẫn, chăm chỉ, lại biết tính toán nên kiếm ra rất nhiều tiền.
 Tổ tiên Xa-mu-en vốn gốc người Hà Lan, di cư đến bờ hồ Dui-đéc-dê, một vùng phì nhiêu của châu Mỹ mới. Đây là một mảnh đất ai đến cũng nuôi mộng làm giàu. Ông nội của Xa-mu-en là Giôn, thuộc cánh những người đi khai hoang. Họ ủng hộ vua Anh, chống lại phái cấp tiến. Giôn lao vào hoạt động chống lại cuộc đấu tranh giành độc lập cho Bắc Mỹ. Trong cuộc chiến tranh lừng lẫy này, Giôn Ê-đi-xơn đã là một “to-ri”, nghĩa là một người ủng hộ nhà vua Anh, và thuộc phái bảo thủ. Bị bắt, bị tích thu toàn bộ gia sản, nhà đại điền chủ Giôn may mắn không phải chịu tử hình. Nhưng sau tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ, Giôn bị đày đi cùng với nhiều “to-ri” khác. Xa-ra Óc-đen, vợ Giôn, cùng với bảy đứa con cũng theo ông đi. Cả gia đình dừng lại ở miền tây Ca-na-đa và đã chịu đựng mọi gian khổ, thiếu thốn, lao động cật lực để khai phá rừng hoang. Nhờ tính cần cù và lòng quyết tâm không chịu thua số phận, thua mọi khó khăn nên chẳng bao lâu họ đã là chủ nhân của một vùng đất phì nhiêu.
 Đứa con đầu lòng của Xa-mu-en đã lập gia đình năm 1792 và có nhiều con. Một trong các trẻ đó, sinh năm 1804, cũng tên là Xa-mu-en. Để khỏi lẫn, người ta gọi chú bé là Xa-mu-en Trẻ. Sau bốn mươi ba năm, chính Xa-mu-en Trẻ này đã trở thành cha đẻ của một nhà phát minh khoa học tiếng tăm lẫy lừng.
 Vào đầu thế kỷ mười chín, nước Anh quyết tâm thực hiện chính sách thôn tính Ca-na-đa Thượng (ngày này là bang Ôn-ta-ri-ô). Thế là những hoạt động nhằm thôn tính vùng bờ bắc và bờ tây hồ Ê-ri-ê bắt đầu. Để chiếm khéo đất đai của những người di cư khai hoang, chính phủ Anh ở bắc Ca-na-đa bèn hứa bồi thường cho họ cả quyền làm chủ vĩnh viễn ở những miền đất ấy. Riêng đối với những gia đình dòng dõi các to-ri thì nhà vua Anh lại càng tỏ vẻ quan tâm đặc biệt. Họ được mời đến chọn nhận những vùng đất mới trước và được chuẩn bị đón tiếp chu đáo.
 Và thế là những đoàn xe bò, xe ngựa, xe trượt chở người, chở vật… ra đi dọc Ca-na-đa, từ miền đông sang miền tây rồi lên miền Bắc.
 Năm 1811, bấy giờ Giôn đã là một cụ già tám mươi tuổi nhưng vẫn rất khoẻ. Cụ tập hợp toàn đại gia đình lại, cắt đặt công việc chuẩn bị, sau đó dẫn đầu đoàn người lên đường đi về hướng tây. Gia đình Ê-đi-xơn mang theo hàng đàn bò và đã đi bộ hàng trăm ki-lô-mét qua những vùng đất đai cằn cỗi. Sau khi đã lang thang nhiều nơi, vượt biên giới bắc Hoa Kỳ, trên bờ sông Hu-xôn rồi từ đó qua con thác nổi tiếng hung dữ Ni-a-ga-ra, cái đại gia đình đầy trẻ con và đồ đạc ấy leo ngược lên miền tây hoang dại của Ca-na-đa phủ đầy sương giá và những rừng già nối tiếp nhau không dứt.
 Sau nhiều ngày đi ròng rã, bàn chân người lớn và trẻ con đều đã rớm máu thì một chiều nọ, khi nơi chân trời phía tây ráng đỏ đục ngầu dữ dội như tròng mắt của một con quái vật đang dịu dần, thì người chủ gia đình già nua ấy đã đưa được cả đoàn con cháu mình tới mảnh đất được chia. Bỏ mũ ra, mặc cho mái tóc bạc gió lùa bay tung, như một cây đại thụ, cụ Giôn rướn tấm thân già còn tráng kiện, quay lại đàn con cháu, nói lớn giọng trang trọng:
- Chúng ta sẽ ở lại đất này!
 Nói rồi, cụ quỳ xuống hôn lên mặt đất. Tất cả trẻ, già, trai, gái đều theo vị tộc trưởng, quỳ xuống hôn mảnh đất mới mà từ đây đã trở thành quê hương của họ.
 Đó là một thung lũng đẹp, xung quanh có những rừng thông. Họ ở lại đó và đặt tên đất là Viên-na. Họ chặt cây, dựng nhà, vỡ hoang thành những cánh đồng rộng. Từng gia đình nhỏ cật sức làm việc. Họ nuôi gia súc, săn bắn, phá rừng, lấy gỗ. Viên-na phát triển rất nhanh, dần dần đã có cái dáng của một làng rồi một tỉnh lỵ. Họ đóng từng bè gỗ lớn, loại gỗ dùng cho các công trình và chở sang bán ở nước Anh.
Họ giàu có dần…
 Năm 1837, như ta đã biết, cuộc nổi dậy của tư sản Ca-na-đa đã kết thúc một cách đáng buồn. Xa-mu-en Ê-đi-xơn Trẻ, cháu nội của cụ Giôn Ê-đi-xơn, đã chạy sang Mi-lan, bỏ lại Ca-na-đa xa xôi nấm mồ người ông đáng kính mà chỉ có tuổi già mới khuất phục nổi.
Xa-mu-en Ê-đi-xơn Trẻ nói với vợ:
- Nan-xi ạ, chúng ta sẽ xây dựng lại từ đầu bằng chính những bàn tay của chúng ta như xưa kia cha ông chúng ta đã làm. Hãy nâng cao niềm hy vọng em ạ, và hãy tập trung sức để lao động!
- Phải như vậy thôi, mình ạ – bà Xa-mu-en dịu dàng trả lời chồng.
Tôm
 Làm ngói gỗ một thời gian, Xa-mu-en Ê-đi-xơn Trẻ quay sang buôn bán ngũ cốc. Hồi ấy người ta chỉ chuyên chở hàng hoá bằng đường thuỷ. Buôn bán ngày càng phát triển. Đứa con lớn của ông, tên là Bin, có tài vẽ, sau này sẽ trở thành Giám đốc Liên đoàn tàu điện ở Po Hu-rôn. Ta-ni hay Ta-ni-a, một cô gái mảnh dẻ, dịu dàng, đứa con thứ hai, sau này sẽ là người chị, người bạn tận tuỵ của nhà phát minh khoa học nổi tiếng tương lai, khi ấy chưa sinh ra.
 Vào giữa thế kỷ trước, một điều tất nhiên nhưng cũng là điều bất lợi cho dân tỉnh Mi-lan, đã xảy ra. Đó là khắp nước Mỹ, các nhà tư bản công nghiệp bắt đầu xây dựng hệ thống đường xe lửa. Gần Mi-lan, cũng có một đường. Do đó, chẳng ai còn chuyên chở hàng hoá bằng đường thuỷ nữa vì vừa tốn tiền hơn chở bằng xe lửa vừa không an toàn bằng. Cả thành phố việc buôn bán hầu như tê liệt. Cơn bão kinh tế đã ập vào gia đình ông Xa-mu-en chăm chỉ. Việc buôn bán ngũ cốc và ngói gỗ ngày càng sa sút. Cả gia đình lại quay ra làm vườn. Nhưng nghề làm vườn chẳng đem lại mấy lợi tức, Xa-mu-en không hề nản chí, ngày ngày vẫn cần cù chăm bón mảnh vườn nhà. Ông dũng cảm đương đầu với mọi khó khăn, thiếu thốn. Bà Xa-mu-en trông coi mọi việc trong nhà giúp chồng.
 Trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ngày mười một tháng hai năm 1847 đứa con thứ ba của ông bà Xa-mu-en ra đời: Tô-ma An-va Ê-đi-xơn (Thomas Alva Edison). Cậu là đứa trẻ yếu ớt nhưng lại hay nghịch, rất hiếu kỳ, vì vậy mà thường hay bị đòn nhất.
 Lên năm tuổi, có lần Tôm chui vào chuồng gà và ngạc nhiên nhìn gà nằm trong ổ trứng, đuổi cũng không đi và ít lâu sau cậu bé sửng sốt thấy trứng gà nở thành gà con. Cậu bảo mẹ:
- Mẹ ơi, con gà mái nhà ta làm ra bao nhiêu là gà con, rất xinh mẹ ạ, mẹ ra mà xem.
Hai mẹ con dắt tay nhau ra xem gà đã xuống ổ đang bới đất. Tôm bảo mẹ:
- Mẹ ơi, gà mái làm thế nào mà trứng lại biến thành gà con được hở mẹ?
- Gà mẹ chẳng làm gì cả, con ạ, nó chỉ nằm ấp để giữ cho trứng nóng thôi, còn cái trứng tự nó nở thành gà con đấy!
- Thật ư mẹ? Thế nghĩa là giữ cho nóng thì nó nở thành gà con ư? Bao giờ cũng thế chứ mẹ?
- Đúng con ạ, nhưng chỉ có gà mới biết làm thôi.
 Tôm thích quá. Cậu nghĩ thế thì dễ quá, vả lại gà làm được thì mình cũng làm được. Thế là chẳng bảo ai, cậu trèo lên gác xép ở lì trên ấy.
 Cả sáng, rồi cả chiều, chẳng ai thấy Tôm đâu. Bà mẹ đi tìm khắp nơi và cuối cùng thấy chú bé đang ngồi im trên rổ trứng đặt ở góc căn gác xép.
- Con làm gì thế, Tôm?
- Con ấp trứng cho nó nở thành gà con.
Bà mẹ buồn cười. Bà bế cậu bé lên hôn chùn chụt.
- Con yêu của mẹ ạ, con chưa thi được với gà đâu. Thôi, xuống mẹ thay quần áo cho. Con xem này, con làm vỡ hết trứng gà của mẹ rồi!
 Dù trứng có bị vỡ thì Tôm, cậu bé năm tuổi, cũng là người đầu tiên nghĩ đến cách ấp trứng nhân tạo.
Những trò tinh nghịch và những mầm mống của thiên tài
 Ở tuổi thiếu niên, trong khi các cậu bé khác còn ham chơi thì Tôm đã không những luôn băn khoăn tìm hiểu mọi vật xung quanh mình mà còn muốn hiểu thấu đáo các vật đó. Cái gì cũng làm cậu ngạc nhiên. Cậu không hỏi ai được thì tự đặt cho mình các câu hỏi và cố tìm cách tự trả lời.
 Vào thời kỳ tỉnh lỵ Mi-lan còn là một thương cảng nhỏ, cậu bé đã suốt ngày ngắm nhìn không biết mỏi những hoạt động nhộn nhịp của bến tàu, của xe cộ; đã say sưa theo dõi không chán nhịp điệu lao động khẩn trương ở nơi bốc dỡ hàng hoá của công nhân khuân vác… Đôi khi vì mải xem các máy cưa cưa gỗ làm ngói, cậu đã về nhà muộn. Chiều hôm ấy, chắc chắn là cậu sẽ bị ông Xa-mu-en mắng cho một trận thậm tệ về tội chỉ đi lang thang vô ích.
 Cậu không hề chơi các trò chơi mà ở vào lứa tuổi cậu em nào cũng ham mê. Cậu chỉ thích đi nhặt các mẩu gỗ ngoài công trường rồi ghép lại thành kè, thành bến, thành nhà kho, v.v…
- Tôm, làm gì thế con?
 Đó là câu hỏi bà mẹ luôn luôn hỏi cậu, lo lắng thấy cậu lúc nào cũng bận những việc không đâu, đến nỗi bỏ cả ăn, cả ngủ.
 Cái cảnh phồn vinh trên bến dưới thuyền Tôm đã thấy trong thời thơ ấu của mình không tồn tại lâu: Con đường sắt gần Mi-lan hoàn thành thì bến tàu cũng bắt đầu hoang vắng. Gia đình Xa-mu-en cũng dọn sang Po Hu-rôn ở phía nam hồ Hu-rôn.
 Ở Po Hu-rôn có một thư viện, tuy nhỏ nhưng cũng có đủ mọi loại sách của tất cả các môn khoa học. Ngay từ bảy tuổi, Tôm cũng đã hàng ngày đến đó đọc sách. Tôm đọc bất cứ sách gì có ở thư viện. Năm lên chín tuổi, cậu đã đọc “Triết học tự nhiên và triết học kinh nghiệm” của Ri-sa Gơ-rin Pac-cơ xuất bản năm 1856. Cho đến năm mười hai tuổi, cậu bé đã đọc hầu hết các sách cơ bản về văn hoá thế giới, những cuốn được người đương thời rất quý như “Lịch sử sự tiến bộ và thoái hoá của đế quốc La Mã” của Gip-bông, “Lịch sử Đại Anh quốc” của Hum, “Lịch sử thế giới” của Xya, “Bách khoa toàn thư sơ đẳng” của Pê-ni, “Lịch sử sự cách tân” của Buốc-tôn. Cậu đã đọc nghiến ngấu, say mê những cuốn sách đó.Tuy khác hẳn những trẻ cùng tuổi nhưng Tôm cũng có một người bạn thân. Đó là Mi-ca-en Oa-tét. Cha mẹ Mi-ca-en ở Mi-si-gân. Đôi bạn hợp nhau và thân nhau vì cũng gặp nhau ở chỗ thèm hiểu biết, thích khám phá.
 Dưới hầm nhà, Tôm lập một “phòng thí nghiệm”. Ngoài thì giờ ở trường ra, Tôm không hề đi đâu, cậu chỉ ở đấy, thí nghiệm lại tất cả những gì đã học. Ai cũng cười Tôm, chỉ riêng mẹ và chị Ta-ni-a là ủng hộ. Ta-ni-a là một cô bé cũng ưa những công việc tìm tòi của em mình.
 Chỉ trong một tuần, Tôm dạy chị học thuộc lòng các chữ cái bằng tín hiệu moóc-xơ. Từ nay, hai chị em đã có một trò chơi mới: có thể nói chuyện “bí mật” trước mặt mọi người mà chẳng ai hay biết.Tôm có một điều bực mình là chị Ta-ni-a hay dậy muộn và mẹ chỉ toàn sai Tôm lên gọi. Sáng nào cũng vậy, trong lúc đang ngủ ngon thì Tôm bị mẹ lay dậy, bảo:
- Tôm, lên gác đánh thức chị Ta-ni-a dậy, kẻo chị lại đi học muộn!
 Tôm đành mắt nhắm mắt mở đi gọi chị. Mà nào có phải chỉ gọi một tiếng là chị dậy đâu. Tôm phải lay chị hàng mươi phút chị mới mở mắt. Để khỏi chui ra khỏi chăn ấm, Tôm nghĩ ra một cách gọi rất mầu nhiệm làm cho chị phải dậy ngay mỗi khi mẹ vừa sai Tôm. Một buổi sáng, khi mẹ vừa gọi: “Tôm, lên gác gọi chị Ta-ni-a…” cậu liền thò tay ra khỏi chăn, kéo một thanh gỗ treo nằm ngang xuống. Thế là ở trên gác chị Ta-ni-a dậy ngay tức khắc! Máy gì mà tài thế? Thì ra Tôm làm một thanh gỗ, buộc vào hai đầu thanh gỗ hai sợi dây gai; hai đầu kia em buộc vào hai cổ chân chị Ta-ni-a. Khi kéo một đầu thanh gỗ thì một chân Ta-ni-a sẽ bị lôi ra ngoài chăn, nếu kéo mạnh quá thì cả Ta-ni-a cũng bị lôi ra khỏi giường.
 Ngoài ra, Tôm còn làm máy… “nói” ở phòng Ta-ni-a. Em gắn một cái phễu vào đầu một ống dẫn nước đã bỏ đi ở trên gác. Ống này được đặt từ trên gác xuống căn hầm nhà, vào tận “phòng thí nghiệm” của Tôm. Ở dưới này, Tôm cũng gắn cái phễu nữa vào đầu ống, và thế là hai chị em cứ việc nói chuyện với nhau, một ở trên gác, một ở trong “phòng thí nghiệm”.
Một hôm, Ta-ni-a gọi “ống nói” cho Tôm báo một “tin dữ”:
- Alo, Tôm!
- Alo, chị Ta-ni-a, cái gì thế?
- Này, nếu em không đóng cánh cửa sổ lại thì chị không dậy đâu nhé, vì bỏ chăn ra chị sẽ bị cảm lạnh đấy.
-Chị không dậy thì mặc chị. Cô Hô-uất sẽ phạt chị!
- Sao lại thế? Cứ đóng cửa vào, chị dậy ngay.
- Em không đóng được. “Máy” hỏng rồi!
- Kệ, chữa đi!
- Em thử xem nhé?
 Tôm kéo mạnh sợi dây buộc vào cánh cửa sổ lắp kính trên gác để thử, ai ngờ cánh cửa bật ra và rơi xuống đất, kính vỡ tan. Tôm bị cha đánh cho một trận rất đau vì cái “trò điên” ấy.
 Cứ sáng sáng Tôm và Ta-ni-a dắt tay nhau cùng đi đến trường. Hôm ấy, Tôm cắm đầu đi không nói năng gì, Ta-ni-a hỏi:
- Em nghĩ gì thế?
- Em nghĩ tại sao người ta không tìm cách giữ tiếng nói lại để nó bay phí hoài đi mất.
- Nhưng giữ lại để làm gì?
- Chị ngốc lắm. Nếu có thể được thì em sẽ giữ lại bài diễn thuyết của Oa-sinh-tơn và của Phơ-răng-cơ-lanh…. Có ai ngờ đâu là trong đầu óc của cậu bé mười hai tuổi ấy, đã có cái ý nghĩ mầm mống về máy ghi âm.
Một thí nghiệm về phép “Bay lên cao”
 Bạn của Tôm, Mi-ca-en Oa-tét, đôi khi cũng đến thăm “phòng thí nghiệm” ở tầng hầm. Đôi bạn, có khi cả ngày, say sưa làm đủ mọi thí nghiệm về vật lý và hoá học. Cả hai đã đọc được ở một cuốn sách viết về định luật các chất hơi nhẹ hơn không khí. Như vậy là khí nhẹ bốc hơi có thể làm cho cả một vật nặng bay lên theo nó.
 Một hôm, Tôm tự bảo nhất định phải thí nghiệm định luật đó. Cậu ta đi xin đâu ở hàng xóm được khá nhiều chất muối dùng để điều chế ra một thứ nước có hơi. “Nhà vật lý và hoá học” tý hon này bèn cam đoan với cậu bạn thân Mi-ca-en là uống xong, cậu ta sẽ bay được quanh các ngọn cây và các mái nhà như chim. Vì lượng muối ấy sẽ sinh ra hơi nhẹ trong cơ thể sẽ đẩy người ta bay lên được. Tôm khuyến khích:
- Uống đi, uống đi, cậu sẽ bay cao hơn cả chim sẻ và chim én!
 Tin tưởng bạn mình đã nắm chắc được chiếc “chìa khoá” của việc con người có thể bay được như chim, Mi-ca-en bèn dốc tuột vào mồm tất cả lượng muối ấy. Nhưng đáng lẽ phải bay được thì một lúc sau người bạn tốt và cả tin ấy lại thét lên, lăn lộn vì đau đớn. Hơi sinh ra làm cậu bé trướng ruột, nghẹn thở. Ông Xa-mu-en vội chạy ngay đi mời thầy thuốc và sau đó, tất nhiên, Tôm, nhà phát minh tý hon, được một trận đòn nhừ tử.
 Tôm là một cậu bé tham lam, muốn biết tất cả, muốn tìm ra cái gốc phát sinh mọi huyền bí của sự vật quanh mình. Và cậu đã gặp nhiều trở ngại. Trở ngại đầu tiên chính là ông bố, chỉ lo cần cù làm giàu, ông cho cậu là một thằng bé viển vông, có những biểu hiện không bình thường về tâm thần.
Nhắc bài bằng điện báo
Hai chị em Ta-ni-a cùng học một lớp ở trường tiểu học Po Hu-rôn.
Một hôm, cô giáo Hô-uất gọi Ta-ni-a lên bảng đọc bài địa lý. Cô hỏi Ta-ni-a:
- Bắc Mỹ có bao nhiêu bang?
- Bắc Mỹ có ba mươi ba…
- Bao nhiêu?…
 Ta-ni-a ngắc ngứ mãi rồi nói “mười bảy”. Nhưng vừa nói xong là em biết ngay là mình lầm nên vội vàng đưa mắt cầu cứu Tôm. Cậu em vội vàng mở vở địa lý ra xem rồi nhắc chị, nhưng nhắc bằng một cách rất độc đáo: cậu gõ đầu bút chì xuống bàn khi mau khi chậm theo quy định của tín hiệu moóc-xơ. Thế là Ta-ni-a trả lời trôi như cháo chảy. Từ đó hai chị em nhắc nhau bằng cách ấy. Tụi bạn trong lớp thấy phương pháp nhắc bằng tín hiệu moóc-xơ hiệu nghiệm quá liền năn nỉ hai chị em Tôm dạy cho. Thế là từ đó: vĩnh biệt những bài học thuộc lòng! Tín hiệu moóc-xơ muôn năm! Và cũng từ đó cứ mỗi lần cô Hô-uất gọi một em nào lên đọc bài là y như rằng tiếng gõ bút chì vang lên: Cách! Cách! Cách…! và… em này đọc bài cứ làu làu. Cô giáo không ngờ học trò của cô đã hàng ngày dối cô một cách khéo léo. Có điều những tiếng gõ bút chì làm cô khó chịu. Cô ra lệnh không được gõ nữa. Lập tức những tiếng suỵt dài ngắn lại nổi lên: moóc-xơ vẫn hoạt động! Sau, cách ấy cũng không ổn thì các em lại lấy tay ra hiệu, cô giáo vừa không chú ý, vừa không ồn.
 Cô Hô-uất rất vừa ý thấy độ này học sinh của cô đã bắt đầu chịu học, mà điều tiến bộ ấy tất nhiên là do phương pháp sư phạm của cô. Bởi vậy cô rất hãnh diện.
 Một hôm có thầy thanh tra về: thầy Xin-cơ-le. Thật không may là hồi trẻ trước khi vào ngành giáo dục, thầy Xin-cơ-le đã có lúc làm điện báo viên ở Bốt-xtơn. Muốn kiểm tra xem học sinh chuẩn bị bài thế nào, thầy vào dự lớp cô Hô-uất.
- Nào, mời hai em Ê-đi-xơn Ta-ni-a và Hô-pê Li-vít lên bảng…
 Tôm ngồi ngay ở bàn đầu. Khi thầy thanh tra vừa hỏi xong thì tiếng sách vở mở xoàn xoạt và tín hiệu moóc-xơ được ứng dụng ngay.
 Thầy chú ý thấy Tôm cứ đưa đi đưa lại bàn tay một cách đều đặn khi dài khi ngắn. Với thói quen nhận xét nghề nghiệp của một người điện báo viên cũ, thầy chợt nhận ra đó là những tín hiệu moóc-xơ. Nhưng thầy cũng phải ngẩn người ngạc nhiên trước lũ trò nhỏ này với cái trò chơi tài năng ấy của chúng. Thầy biết rất rõ rằng chỉ riêng nghe, hiểu được các tín hiệu moóc-xơ cũng đã là một điều khó huống chi lại nhận bằng mắt! Làm sao bọn trẻ con này lại đã thuộc lầu và sử dụng thành thạo như vậy? Hay chúng là con cái cá điện báo viên?
 Thầy hỏi nghề nghiệp bố mẹ của từng em một. Chẳng có em nào là con cái điện báo viên cả. Thật lạ! Gọi Tôm lên bảng: thầy thấy Ta-ni-a đánh moóc-xơ. Gọi một em bàn khác lên thì lại một em nào đó đánh tín hiệu… Đến chiều thì thầy đã rõ là hầu như cả lớp đều biết chỉ trừ có vài em. Thế thì quá lắm…
 Khi về văn phòng, cô Hô-uất sung sướng vì buổi kiểm tra đã kết thúc tốt đẹp, cô bảo thầy Xin-cơ-le:
- Thưa ông thanh tra, ông hơi khắt khe quá đấy ạ, các em xứng đáng được những điểm cao hơn nữa kia. Thế mà điểm cao nhất ông chỉ cho được bảy…
- Giá như tôi kiểm tra về điện báo, chắc chắn tôi sẽ cho học trò của cô toàn điểm mười kia!
Cô Hô-uất tròn mắt, ngạc nhiên hỏi lại:
-T hưa ông, thế là thế nào ạ?
Mỉm cười, chậm rãi thầy Xin-cơ-le nói:
- Bởi vì học trò của cô chẳng học hành gì cả. Chúng chỉ toàn lo nhắc nhau bằng moóc-xơ thôi.
Cô Hô-uất sững người ra như tượng, rồi cô hét lên:
- Thế thì lại thằng Ê-đi-xơn Tôm rồi. Chỉ có nó dạy thôi chứ không còn ai nữa cả. Phải tống cổ nó ra ngay lập tức mới được!
- Về ý kiến ấy của cô, tôi lại không đồng ý chút nào. Tôi nghĩ rằng các em có học moóc-xơ thì cũng tốt thôi, dù rằng với mục đích nào. Thế là chúng đã tích luỹ chút gì đấy, cũng cần cho cuộc đời chúng. Chính tôi là người đã đề nghị với Viện nghiên cứu giáo dục hãy đưa điện báo vào chương trình giảng dạy, nhưng đề nghị ấy đã bị gạt đi. Bây giờ thì, dù chẳng muốn, tôi cũng thấy ý nghĩ ấy của tôi đã được thực hiện.
 Sau khi thầy thanh tra đi rồi, cô Hô-uất mắng cho cả lớp một trận ra trò về cái tội nhắc bài.
-  Từ nay, tôi mà bắt được em nào còn làm cái trò dối trá ấy nữa, tôi sẽ đuổi ra khỏi trường…
Nhưng bọn học trò vẫn cứ thế, bởi vì cô Hô-uất có biết nhắc bài kiểu đánh moóc-xơ đầu cua tai nheo ra sao đâu.
Một thí nghiệm nổi tiếng
 Một hôm, Li-vít, con trai người bán rượu, đưa cho Tôm hai cái lọ nhỏ, một lọ đựng a-xít và một lọ đựng a-mô-ni-ắc, để đổi lấy mười viên bi bằng cao su.
Ta-ni-a hỏi:
- Em đổi làm gì đấy?
- Em đổi để làm thí nghiệm… Em định xem xem hai thứ ấy có hoà tan với nhau không.
Thằng Giô, con lão bán tạp hoá, đứng đấy máy mồm cũng hỏi:
- Thế ngộ nó nổ thì sao?
- Không biết… Để tớ còn phải thử đã chứ!
 Tôm sốt ruột quá. Còn những ba tiếng đồng hồ nữa mới đến giờ tan học để có thể về nhà xuống “phòng thí nghiệm” dưới tầng hầm. Tôm nghĩ “Hay là thử luôn ở trường xem thế nào?” Nghĩ sao làm vậy, Tôm hỏi:
- Nào, chúng mày, có đứa nào muốn xem tao thí nghiệm không?
- Chị thì chịu, chị sợ lắm – Ta-ni-a bảo.
Còn bọn con trai nhao nhao:
- Có, tớ! Có, tớ đây! Nhưng cậu làm thí nghiệm ở đâu chứ?
-Ở nhà xí!
 Thế là cả lũ theo Tôm đi. Vào đến nơi Tôm lấy một cái lọ to đổ cả a-xít lẫn a-mô-ni-ắc vào. Bỗng nghe thấy một tiếng nổ “bụp” không to lắm. Sợ hãi, bọn trẻ con chạy ùa ra:
- Nổ! Nổ! Nổ trường chúng bay ơi!
 Chỉ có Tôm dũng cảm ở lại lấy tay bịt miệng lọ. Nhưng không ăn thua! Cậu đánh đổ cả lọ ra nền nhà. Lập tức một làn khói trắng, đặc sệt, bốc lên mù mịt cùng một mùi khó ngửi. Làn khói luồn qua khe cửa, qua các ngóc ngách lan đi khắp trường…
- Cháy! Cháy!… – bọn trẻ con gào lên khi thấy khói tuôn ra khắp chỗ.
Cô Hô-uất chạy ra, hốt hoảng hét tướng lên:
- Chạy, chạy mau các em!
 Thế rồi xe cứu hoả đến, kéo theo một cái vòi “rồng” cuộn khoanh tròn trên một cái xe bốn bánh như kiểu xe nôi của trẻ con.
 Nghe tin cháy trường, tất cả các bậc cha mẹ có con học ở đấy liền vội chạy đến tìm kiếm và cứu chúng. Nguời gọi kẻ kêu làm cho quang cảnh khu trường trở nên hỗn độn khủng khiếp chưa từng có.
 Lính cứu hoả mở vòi rồng ra, phun nước khắp nơi nhưng chẳng thấy qua một ngọn lửa nhỏ nào. Mãi sau, người ta mới khám phá ra cái nơi phát sinh ra đám khói quái quỷ không lửa, bay lan đi khắp mọi chốn ấy! Tuy thế, họ vẫn phun đầy nước vào trường. Cuối cùng “lửa” đã bị giập tắt. Một cuộc thẩm vấn bắt đầu. Bọn trẻ bị gọi đến để hỏi xem… nguyên cớ vì đâu mà lại xảy ra “đám cháy”.
Thằng Giô mách:
- Thưa, thằng Tôm nó đốt trường đấy ạ!
Nhưng những đứa khác nhao nhao lên phản đối:
- Không phải đâu! Nó đốt bao giờ nào?
Li-vít kêu to:
- Ai? Đứa nào bảo thằng Tôm đốt trường đấy?
Thầy hiệu phó hỏi:
- Thế nó định làm cái gì?
- Thí nghiệm ạ, nó chỉ định làm thí nghiệm thôi ạ!
Cô Hô-uất rít lên:
- Tôi biết ngay mà, chị tại cái thằng ranh con Ê-đi-xơn ấy thôi. Học thì không học, chỉ thí với nghiệm… Đâu đến thứ nó! Gọi nó vào đây ngay!
 Bọn trẻ con đi tìm Tôm, nhưng chẳng thấy đâu cả. Nó đã “chuồn”. Không may, vừa lúc ấy ông Ê-đi-xơn nghe tin cháy trường cũng vội bổ nhào đến. Vừa vặn gặp cô Hô-uất. Cô giận dữ bảo ông:
- Con trai ông là một thằng loạn trí. Nó định đốt trường đấy. Ông bảo nó đừng có bước chân đến trường đây nữa!
Ông cúi gằm mặt xuống, nén giận trở về không nói một lời. Về đến nhà, ông hỏi vợ:
- Thằng Tôm đâu?
Bà vợ trả lời không biết và cũng không thấy nó về.
 Ông gọi to. Không một tiếng trả lời. Ông xuống nhà hầm. Không có. Ông vào kho chứa đồ thì tìm thấy Tôm trốn trong một chiếc thùng gỗ to. Ông quát:
- Ra ngay! Thằng trời đánh!
 Run như dẽ, Tôm ra khỏi thùng. Người cha lạnh lùng tháo chiếc thắt lưng da ra và giơ thẳng cánh quật con túi bụi. Tiếng thét của Tôm vang lên tận nhà trên nơi mẹ và chị Ta-ni-a đang đứng nghe ngóng. Hai mẹ con ôm nhau khóc.
Trong cái ngày đáng nguyền rủa ấy, một bầu không khí nặng như chì bao trùm khắp nhà.
Bị đuổi
 Trời gần tối thì thấy cô giáo đến. Cô Hô-uất gầy gò, bao giờ cũng cau có và vận áo đen như một người đã đứng tuổi. Cha mẹ Tôm mời cô vào căn phòng khách giản dị của mình. Vừa ngồi xuống, cô nói ngay:
- Tôi mang một tin không vui đến cho ông bà. Hội đồng nhà trường đã quyết định đuổi con trai ông bà ra khỏi trường.
Bà mẹ hốt hoảng:
- Thưa cô, vì sao ạ?
- Vì con trai ông bà là một phần tử nguy hiểm. Nó đã lôi kéo các học sinh khác không học bài, dạy chúng gõ bút chì lên bàn đánh moóc-xơ, khiến cho tất cả học sinh trong lớp trở nên hư hỏng lừa dối cô giáo, chẳng chịu học hành; rồi lại còn xui nhau đủ thứ câu hỏi dớ dẩn nữa.
- Thưa cô, những câu hỏi như thế nào, cô có thể cho chúng tôi biết được không?
- Thí dụ như: “Sao người ta không giữ tiếng nói lại được?” hoặc “Hạt mưa làm bằng những chất gì?” v.v…
- Thế thì tốt quá! Trẻ con thì cái gì mà chúng chẳng tò mò muốn biết hả cô. Thế có nghĩa là cháu nó muốn được hiểu biết hơn đấy thôi, cô giáo ạ.
- Nhưng không được hỏi trong giờ học. Và, quan trọng hơn là ngày hôm nay em đã định đốt trường.
- Không phải đâu, cô giáo ạ! Cháu nó chỉ làm không thành công một thí nghiệm thôi…
- Ông bà tin thế ư? Tất cả mọi người đều nhìn thấy khói bốc um lên. Cả xe cứu hoả cũng đến…
- Có thể thế, nhưng có ai trông thấy ngọn lửa đâu? Cháu nó có đốt cháy gì đâu mà thực ra cũng không thể nào cháy được ạ. Tôi đã hỏi ông Li-vít, ông ta bảo rằng việc sợ hãi không đâu ấy là do sự không biết gì của mấy người lớn chứ không phải ở lũ học trò.
- Sao, bà nói thế nào?
- Vâng… là vì a-xít mà hoà vào a-mô-ni-ắc thì không sinh ra lửa mà chỉ sinh ra khói trắng thôi…
- Dù sao thì em Tôm cũng không được học nữa…
- Chúng tôi sẽ khiếu nại…
- Tôi sẽ phản đối! – cô giáo Hô-uất dằn từng tiếng.
- Thưa cô, tại sao ạ?
- Vì thằng con trai bà là một thằng bé loạn trí, một đứa học trò hư hỏng!
Người mẹ liền đứng bật dậy, khinh bỉ, bà nói thẳng vào mặt cô Hô-uất:
- Không, chính cô mới loạn trí, vì cô đã không hiểu được học trò. Con tôi sẽ học được, nó sẽ trở thành người có ích.
- Ha! Ha! Ha!… Để “giữ” tiếng nói lại? Và nó, nó mà lại thành người được. Ha, ha…
Bà Ê-đi-xơn cắt ngang tiếng cười mỉa mai của cô giáo:
- Con tôi cần một cô giáo tốt chứ không cần một người ngu ngốc như cô!
Cô Hô-uất gào lên:
- Tôi, tôi mà ngu à? – rồi cô đứng phắt dậy bỏ về như chạy, vừa đi vừa làu bàu đe doạ.
Bà Ê-đi-xơn quay sang chồng. Ông đã ngồi im chẳng nói gì trong suốt cuộc tranh luận gay gắt giữa vợ và cô giáo. Bà bảo ông:
- Sao mình không bảo vệ con lấy một lời?
- Mình nói thế không đủ rồi sao?
- Cô ấy bảo nó là loạn trí, mình có nghe thấy không?
- Tôi có nghe thấy. Nhưng rất tiếc, mình ạ, tất cả những ai biết thằng Tôm đều bảo nó như thế.
- Vì chẳng ai hiểu nó cả. Đúng thế. Một ngày kia khi nó đã tiến xa, nó sẽ chẳng cần phải bận tâm đến những kẻ đó làm gì.
Ông Ê-đi-xơn thở dài:
- Mong sao trời cho được như vậy.
 Nấp ở một chỗ, Tôm đã nghe thấy tất cả. Cậu buồn bã bỏ xuống phòng thí nghiệm ngồi đó giờ lâu, đầu gục trên hai cánh tay: “Tất cả đều bảo mình là kẻ loạn trí. Cả cha nữa. Chỉ có mẹ là bảo vệ mình…”
 Sau khi mọi việc trong nhà đã tạm xong, bà Ê-đi-xơn xếp vào cái khay nhỏ mấy thứ thức ăn định mang xuống nhà hầm cho Tôm. Ông Ê-đi-xơn bảo:
- Đừng có nhồi cho nó quá nhiều như thế.
- Thì cũng phải cho nó ăn chứ. – nói rồi bà mang xuống cho con.
Tôm ôm lấy mẹ, hỏi:
- Cha con nói có lý phải không mẹ? Ngày mai khi chúng nó biết con bị đuổi, chúng nó sẽ cười con là một đứa loạn trí. Mẹ có tin là con loạn trí không?
- Không, con của mẹ ạ. Đừng bao giờ tin vào lời nói của người ta… Những người ấy xấu. Họ ganh tị đấy.
-Dù sao thì cha con cũng cho con là một thằng lang thang vô tích sự và ngớ ngẩn…
- Không, con ạ. Cha con chỉ buồn bực vì con bị đuổi ra khỏi trường thôi.
*
*    *
Ngày hôm sau, gia đình Tôm nhận được một bức thư như sau:
Gửi ông Xa-mu-en Ê-đi-xơn!
Thưa ông,
 Trò Tôm, con trai ông là một trò dốt, lười, hư và hỗn láo. Nếu còn giữ trò ấy lại trường e rằng tiếng thơm lâu nay nhà trường chúng tôi vẫn có vinh dự được mang sẽ bị tổn thương. Tốt nhất là ông nên cho trò ấy đi chăn lợn thì hơn vì chúng tôi thấy rằng trò ấy có học nữa sau này cũng không nên trò trống gì.
Hiệu trưởng trường tiểu học Po Hu-rôn.
Hô-uất
 Thế là Tôm bị đuổi ra khỏi trường và em đã nhớ suốt đời những lời nhục mạ của cô giáo. Bây giờ, ngày tháng đối với em thật nặng nề. Em sống giữa những trận đòn thường xuyên của cha và những lời chế giễu của bạn bè. Tuy thế lòng ham học của em vẫn không giảm sút. Trong căn hầm ẩm ướt vắng lặng, ngày ngày em vẫn một mình miệt mài đọc các sách lý hoá và dần dần, từng bước, em đã đi sâu vào môn khoa học đó.
 Tôm vốn là một cậu bé gan dạ và nhanh trí. Một việc bất ngờ xảy ra sau đây đã đưa cuộc đời em sang một bước ngoặt.
 Như thường lệ, Tôm và Ta-ni-a thường đi chơi. Hai chị em hay đi trên hai đường ray nối liền Po Hu-rôn và tỉnh lỵ Đi-tơ-roi.
Tôm bảo:
- Em định mắc một đường dây điện báo từ căn hầm chỗ em đến phòng chị ở trên gác, chị ạ.
- Để làm gì?
- Để hai chị em mình có gì bí mật thì nói cho nhau nghe chứ còn gì nữa.
- Bí mật à? Như chuyện gián điệp ấy à?
- Không. Như những điện báo viên ấy chứ. Nhưng em không biết họ làm những máy điện báo ấy ra sao. Hay là hai chị em mình ra xem những cái máy ấy đi. Ở phòng làm việc nhà ga ấy.
 Cả hai chạy ra ga và đứng nhìn qua cửa sổ xem những chiếc máy điện báo đang gõ đều đều. Lúc đó có vợ một điện báo viên dắt đứa con trai nhỏ tên là Gim-mi ra thăm chồng. Người chồng để máy, chạy ra đón vợ và con. Hai cha con chơi bóng với nhau. Máy điện báo bỏ đó. Ta-ni-a bảo em:
- Em có dám đánh một bức điện đi Đi-tơ-roi không, hở Tôm?
Tôm kiêu hãnh bảo chị:
- Dám chứ!
 Trong nháy mắt Tôm đã luồn được vào trong phòng làm việc và bắt đầu gõ ma-nip. Bức điện như sau: “Po Hu-rôn bị dân da đỏ phục kích. Các đường phố tràn ngập máu lửa”. Bức điện làm cho mọi người ở Đi-tơ-roi sợ hãi. Hốt hoảng, điện báo viên ở đó vội yêu cầu điện xác nhận lại tin trên lần thứ hai thật rõ ràng. Nhưng lúc này, điện báo viên của nhà ga đã trở về chỗ làm việc và nhìn thấy Tôm lẻn ra. Ông ta hét lên:
- Chúng mày có cút ngay đi không, tao mà tóm được là nhừ xác!
 Tôm và Ta-ni-a vội vàng lủi thật nhanh. Trong lúc đó, bé Gim-mi đang chơi bóng. Bất ngờ quả bóng tuột khỏi tay bé và lăn nhanh vào giữa hai đường ray, vướng dây bóng vào một chiếc bu-lông trên tà vẹt. Đằng kia, một đoàn tàu đang lao vào ga. Bé Gim-mi vẫn thản nhiên ngồi gỡ sợi dây. Tàu vẫn lao đến với tốc độ khá nhanh. Muộn mất rồi, không thể chạy đến kéo được bé ra kịp nữa. Phút quyết định đã đến. Tôm chợt giật tay khỏi tay chị, lao ra nằm úp sấp lên em bé, ép chặt em xuống đất. Đoàn tàu lao nhanh phía trên hai em. Mọi người há mồm, đứng sững nhìn kinh hãi. Đoàn tàu qua rồi, Tôm và bé Gim-mi đứng lên vô sự, mặt mũi lấm đầy bụi than. Thấy con thoát nạn, cha của bé Gim-mi đang nhủn người ra vì đau đớn bỗng sướng như điên.
 Ông ôm chặt Tôm vào ngực không nói nên lời và băn khoăn không biết trả ơn Tôm như thế nào. Sau khi đã hết lời cảm ơn em, ông muốn biếu em vài đô-la để mua quà. Nhưng Tôm nhất định không nhận. Còn Ta-ni-a thì nghiêm trang nói khẽ:
- Không, bác ạ, “người anh hùng” không bao giờ lại đi nhận tiền thưởng cả!
- Vậy, cháu phải cho bác biếu cháu cái gì chứ. Cháu nói đi, cháu thích cái gì nào?
Tôm ngập ngừng yêu cầu:
- Bác cho cháu một ít dây điện, được không? Cháu đang cần… có thế thôi ạ.
- Bao nhiêu cũng có. Một cuộn nguyên nhé?
Ta-ni-a ranh mãnh đáp thay em:
- Dạ, hai cũng được, bác ạ!
- Thì hai cuộn. Nhưng các cháu dùng dây điện làm gì?
- Chúng cháu định mắc một đường dây điện báo.
- Điện báo ư? Tuyệt! Chúc các cháu thành công nhé..
.
Tôm ngập ngừng rồi quả quyết:
- Thưa bác, nếu quả thật bác muốn đền công cho cháu thì…
- Thì sao nào, cứ nói đi cháu?
- … Bác dạy cháu nghề của bác. Cháu cũng biết chút ít, nhưng…
- Được, thế là xong nhé. Bác vui lòng nhận. Vậy cứ buổi chiều, khi bác ít việc, cháu ra đây bác sẽ dạy cháu nghề điện báo.
 Sung sướng, hai chị em khoác hai cuộn dây ra về. Từ đấy, chiều chiều Tôm ra ga học nghề điện báo. Chỉ trong một thời gian ngắn, cậu bé học nghề ấy đã vượt thầy. Em đã làm được cả một máy điện báo xinh xinh, dùng được, toàn bằng ống bơ và hộp sắt.
 Đó là sáng chế đầu tiên của cậu bé thiên tài, cậu bé chỉ ít năm sau đã làm xôn xao dư luận về nhiều sáng kiến, phát minh của mình.
 Ít lâu sau, Tôm quyết định xây dựng một “đài điện báo” riêng. Em bảo Mi-ca-en Oa-tét, bạn cùng thí nghiệm trước đây với em:
-Này cậu ạ, chúng mình sẽ đánh điện cho nhau nhé?
- Nhưng làm thế nào hở Tôm?
 Cùng với sự “cộng tác” của Mi-ca-en, “Đài điện báo Ê-đi-xơn” đã được thành lập. Đường dây nối liền từ căn hầm nhà có “phòng thí nghiệm” của Tôm đến ngôi nhà của người bạn thân.
Không đủ vật liệu, em đã dùng nhiều thứ khác để thay thế, như lấy chai lọ làm vật cách điện, lấy những vòng đồng làm ma-níp, v.v… Các bức điện cứ thi nhau mà chuyển từ căn hầm đến nhà người bạn và ngược lại. Bọn trẻ rất vui, chúng say mê với trò chơi mới. Riêng ông Xa-mu-en, người cha khắc khổ ấy, bực mình lắm. Thế nghĩa là thằng con trai khó dạy của ông vẫn tiếp tục bày ra những trò tinh quái và coi thường những lời dạy bảo của ông.
Tôm bán hàng rong
 Vì chuyện can đảm cứu một em bé, mẹ thưởng cho Tôm mười xu để mua kẹo. Tôm muốn mua một quyển sách hoá học hơn là ăn kẹo nhưng mẹ không bằng lòng. Vả lại mua sách thì cha lại rất ghét. Cha rất khó chịu khi thấy Tôm cứ ngồi suốt ngày đọc sách. Cuối cùng Tôm đành vào hàng cà-phê mua mười xu kẹo được mười hai chiếc. Em bỏ một chiếc vào mồm, đút những chiếc còn lại vào túi và chạy ra ga chơi.
 Tàu số 7 đã vào ga đang còn thở hồng hộc, khói tuôn phì phì qua ống khói như một con quái vật. Lái tàu là bác Nen-xơn, người thấp, to bè. Một hành khách đang thò đầu qua cửa toa xem ga, thấy Tôm ăn kẹo anh ta cũng muốn ăn, bèn hỏi Tôm có bán kẹo không.
- Có bán, chú ạ. Năm xu một chiếc.
- Đắt thế… Thôi, cũng được. Bán cho chú một chiếc nào.
 Mỗi người mua một chiếc. Còn lại mấy chiếc muốn bán cho nhanh, Tôm trèo lên toa, thế là tàu chạy lúc nào không hay. Lúc biết ra thì không xuống được nữa. Mãi đến ga Đi-tơ-roi, tàu đỗ, em mới có thể xuống được. Nhưng xuống thì cũng chẳng làm được gì vì hai ngày nữa mới có tàu trở về. Làm sao đây? Lấy gì mà ăn cho đến ngày kia và lấy tiền đâu mà mua vé trở về.
 Chẳng lẽ chịu nhịn đói à? Tôm đâu phải đứa trẻ dễ sợ hãi. Thế là em dùng số tiền bán kẹo lại đi mua kẹo và hoa quả đem ra ga bán. Vài ngày sau, em đã có tiền mua vé tàu trở về. Đến ga, em thấy cả nhà đang đứng ở đó. Cha Tôm định bụng ngay lúc Tôm trở về mệt mỏi và đói mềm sẽ cho thằng con bất trị một trận đòn nhừ tử, nhưng ông ngạc nhiên biết bao thấy con mình khoẻ mạnh, nhảy từ trên tàu xuống, trước ngực đeo một khay kẹo, Ta-ni-a chạy ra đón em:
- Thế nào, Tôm?
 Để trả lời, Tôm lấy trên khay một con búp bê bằng kẹo đưa cho chị. Rồi hối hả chạy lại gần mẹ, đưa cho mẹ một bó hoa nhỏ và đưa cho cha một chiếc hộp đựng thuốc lá.
- Sao con bỏ nhà đi?
- Không, bố ạ, con có định bỏ nhà đi đâu…
Bà mẹ sợ chồng lại đánh mắng con nơi đông người, nên vội vàng bảo:
- Thôi, ta về nhà đã, muộn rồi!
 Về tới nhà, sau khi đã nói rõ vì sao em đi mấy ngày nay không xin phép bố mẹ, Tôm cố nói cho cha hiểu là bị đuổi khỏi trường rồi, tốt nhất là cha cho em đi bán hàng rong để kiếm sống.
Biết không thuyết phục nổi cha, Tôm buồn bã xuống nhà hầm. Ta-ni-a cũng theo em. Cha mẹ Tôm tiếp tục ngồi bàn bạc. Ông Ê-đi-xơn bảo vợ:
- Bà ạ, tôi không thể để cho nó đi bán hàng rong đâu. Tôi không muốn làm trò cười cho thiên hạ.
- Người ta cười thì đã sao, hở ông? Nó tự kiếm sống chứ có làm điều gì xấu đâu. Vả lại, ông xem, nó say sưa làm việc thế cơ mà. Ông tưởng con nó chỉ ngừng lại ở đó thôi ư? Không đâu, ông ạ, nó có những suy nghĩ sâu xa đấy. Nó đang tự rèn luyện để nên người đấy ông ạ. Nó sẽ đạt được ước vọng của nó, tôi tin như thế.
 Cuối cùng, ông bố cũng phải bằng lòng. Ông châm một điếu thuốc và tự mình đi bảo cho con quyết định ấy. Nhưng vừa xuống đến nhà hầm ông đứng sững lại: Tôm và Ta-ni-a, mỗi đứa đang cầm một mảnh gì đó trong tay và đang ra sức cọ lên tóc nhau.
- Chúng bay làm cái gì thế, lũ quỷ, tóc tai bù xù lên thế kia kìa?
- Chúng con muốn làm ra điện, cha ạ! – hai chị em tươi tỉnh trả lời.
Ông bố bèn thét lên:
- Tao sẽ cho chúng mày biết làm ra điện như thế nào để mà nhớ suốt đời.
Và Tôm lại bị một trận đòn.
“Trưởng phòng thí nghiệm” và con người không biết sợ hãi
 Tôm lại đi bán hàng rong và đã dành dụm mua được những cuốn sách lý, hoá mơ ước từ lâu. Ban ngày, em đi bán hoa quả và thuốc lá, đêm đến em miệt mài đọc sách. Trong các ngăn tủ, những cuốn sách dày ngày một nhiều.
 Mùa xuân và mùa hạ đã qua, mùa đông sắp đến. Tủ sách của Tôm ngày càng lớn và kiến thức của em ngày một rộng mở. Em rất tự hào do lao động cần mẫn của mình, đã mua được những cuốn sách tuyệt diệu như vậy.
 Bận quá, em chẳng còn thì giờ về nhà nữa. Em xin với bác Nen-xơn, trưởng tàu số 7 cho em được ở lại trên tàu và đặt trong một góc toa “phòng thí nghiệm” nhỏ bé của em. Bác Nen-xơn bằng lòng.
 Tôm kiếm được ít đinh và một mảnh ván. Với một cái cưa và một chiếc búa, em đã tạo ra được “phòng thí nghiệm” trong góc toa mà bác Nen-xơn đã cho em được tự ý sử dụng. Em đóng một cái hộp để đựng những “dụng cụ thí nghiệm”. Trong “phòng thí nghiệm trên bánh xe lăn”, trong tiếng rầm rầm và nhịp lắc lư của chiếc toa chở hàng, cậu thiếu niên say mê khoa học ấy đã quên tất cả, say sưa làm những thí nghiệm vào mọi lúc rỗi rãi hoặc ngốn ngấu đọc những cuốn sách lý, hoá mới nhất. Cậu không ngừng đọc sách, chẳng hề biết mệt mỏi.
 Một lần, nhân lúc tàu dừng lại ở ga Đi-tơ-roi, có một người ở Liên đoàn vận tải nhờ Tôm đưa hộ một bức thư rất cần cho ông giám đốc Liên đoàn đang nghỉ phép ở quê, cách ga cậu ở đọ hai mươi ki-lô-mét và bằng bất cứ giá nào bức thư ấy phải đến tay ông giám đốc ngay trong đêm ấy.
- Này đây, tôi biếu cậu mười lăm đô-la!
Tôm suy nghĩ một lát rồi bảo:
- Ít quá ông ạ. Vì tôi cần một người nữa đi cùng tôi mới được. Ông trả cho hai mươi lăm đô-la mới đủ.
- Được thôi, miễn là hoàn thành công việc.
 Tôm cầm thư, nhận tiền rồi rủ một bạn quen lớn hơn em một chút, và cả hai lên đường. Khoảng tám rưỡi tối, các em xuống ga, rẽ vào đường làng. Trời mưa và tối. Chỉ có một ngọn đèn trong tay, các em dò dẫm bước. Đường dài và vắng… Lại phải xuyên qua một cánh rừng nhỏ. Trên đầu, cành cây đan chặt vào nhau, nhấp nhoáng ánh đèn tưởng như có một đàn rắn khổng lồ. Chốc chốc các em lại vấp phải những rễ cây nổi, hốc cây như những con quái vật đang há hốc mõm. Người bạn đường của Tôm ướt như chuột lột. Câu ta run lập cập vì rét và sợ hãi.
- Tôm ơi, tớ không đi nữa đâu. Chân tớ rủn ra rồi. Tớ đang rét run lên đây. Thật là một đêm ghê gớm và tối như hũ nút!
- Thế là thế nào bây giờ?
- Chúng mình tìm gốc cây nào mà ẩn rồi đợi sáng hãy đi.
- Không được, Uyn ạ, chúng mình đã nhận đưa thư này ngay đêm nay cơ mà.
- Nhưng, cậu ạ… tớ…
- Thôi, không nói nữa. Đi thôi, nào!
 Các em lại đi. Đột nhiên đèn tắt. Chúng cứ bước thầm. Trời vẫn mưa, sấm chớp đùng đùng. Cả hai mệt bã người. Cuối cùng Tôm đành nhượng bộ. Rùng mình, các em núp dưới gốc cây, có cảm giác như mình sẽ chết mất trong đêm mưa tối tăm ấy.
- Uyn ơi, dù sao chúng ta cũng cứ phải đi. Bọn mình phải hoàn thành việc đã nhận. Không thể ngừng lại đâu. Nào, đi thôi!
 Lại vấp, ngã nhiều lần. Cuối cùng, các em cũng tới được con đường mòn rẽ vào làng vừa khi trời bắt đầu rạng sáng.
Bức thư đã trao được tận tay người nhận đúng lúc.
 Những đồng đô-la thật được việc. Một phần Tôm mua nốt số dụng cụ thí nghiệm, một phần em mua sách lý, hoá. Ôi những cuốn sách quý giá! Em đọc chúng không phải chỉ bằng mắt mà bằng cả trí tuệ và tâm hồn cháy bỏng khát khao hiểu biết.
Nhà báo và nhà xuất bản
 Nhân dân khắp nước đều chăm chú theo dõi mọi tin tức lớn nhỏ của cuộc chiến tranh. Một trận thắng hoặc bại của bất kỳ phía nào cũng làm cho dư luận xôn xao. Khi cuộc chiếc tranh nổ ra, Ê-đi-xơn vừa đúng mười bốn tuổi. Em cũng như mọi người đều nóng lòng chờ đón, nghe ngóng từng tin chiến sự nhưng chẳng bao giờ thoả mãn. Em thấy ở ga Đi-tơ-roi thỉnh thoảng mỗi khi có báo đến, hành khách và dân địa phương tranh cướp nhau mà mua, mà đọc. Trước cảnh ấy, em nảy ra ý nghĩ sẽ làm một tờ báo, trong đó ghi tất cả tin tức các loại cho mọi người đọc, nhất là các tin chiến sự. Quen thực hiện ngay lập tức mọi suy nghĩ của mình, em liền lên Phơ-ra-de, một tỉnh nhỏ gần Po Hu-rôn, mua một bộ chữ và một máy in rập tay cũ kỹ, rẻ tiền.
 Chỉ trong vài ngày, em đã học được cách in và lúc ấy em nghĩ rằng mình sẽ theo nghề này suốt đời.
 Em đem máy in đặt vào “phòng thí nghiệm” trong toa tàu. Thấy bác Nen-xơn vào, em khôn ngoan biếu bác một chiếc tẩu hút thuốc thật đẹp vì em biết bác sẽ làm rầy rà chuyện cái máy in. Quả nhiên, bác hỏi:
- Gì thế này, chú mày?
- Thưa bác, cái máy in ạ. Cháu định ra một tờ báo đăng các tin tức chiến sự.
- Thế chú mày đem nó về nhà chứ? Ở đây thì lúc nào mà in được vì chú mày suốt ngày đi bán hoa quả cơ mà?
- Chính vì thế mà cháu không thể để nó ở nhà được bác ạ, cháu sẽ ra báo ngay ở đây.
- Ở đây à? Tàu của tao là nhà in à? Thật quá quắt! À… vì thế mà mày cho tao chiếc tẩu đấy? Này, cầm lấy và mang ngay máy đi!
- Không phải đâu bác Nen-xơn ơi, xin bác đừng giận. Nếu cháu in được báo thì cả hai bác cháu đều là những người yêu nước cả vì đã thông báo cho dân chúng biết rõ tin tức của bên ta và mọi quyết định của tổng thống Linh-côn.
Bác Nen-xơn nghe có vẻ bùi tai:
- Thế nhỡ người ta khám tàu thấy thì sao?
- Thì người ta sẽ bảo bác cháu ta thực sự là những người yêu nước chứ sao.
 Thế là bác Nen-xơn bằng lòng. Tờ báo lấy tên là “Tuần báo Hê-rôn”. Một lần nữa, Tôm tỏ ra là một thiếu niên có tài năng và khéo léo trong việc giao thiệp với mọi người. Vừa bán kẹo, bán hoa quả, em vừa bán báo cho những người ham đọc tin tức, làm cho họ rất ngạc nhiên về sự sớm chính chắn của Tôm. Bán thêm báo, lãi thu về được nhiều hơn. Một phần tiền em mua sách, một phần tiền em gửi về nhà cho mẹ. Con người nhỏ tuổi đó đã vừa là nhà báo, người biên tập, nhà xuất bản, là thợ in và cũng là giám đốc duy nhất, chủ bút duy nhất của tờ báo. Nội dung của tờ báo là những tin tức thu lượm được qua các bức thư, qua các cuộc chuyện trò với những người lính em gặp trên các toa tàu. Báo còn có cả tin tức xảy ra trên tàu và tin tức lặt vặt trong thành phố.
 Ở ga, ai cũng biết Tôm. Hằng ngày, mọi người mong ngóng Tôm và tờ báo của “một người cùng tỉnh” với họ. Cha mẹ Tôm rất lấy làm hãnh diện. Còn chị Ta-ni-a thì khỏi phải nói, chị rất sung sướng và tự hào về cậu em trai của mình. Để bán được nhiều báo hơn, Tôm quảng cáo cho báo bằng những mảnh tin nhỏ dán ở nơi công cộng trong thành phố và ở trên các toa tàu. Chỉ cần đọc dòng chữ Một trận đánh đẫm máu ở Sy-lốc. Hàng ngàn người chết và bị thương. Xin đọc chi tiết trên “Tuần báo Hê-rôn” thế là mọi người đổ xô mua báo của Tôm, từ mười tờ ở một ga, em bán có khi lên tới hai ba trăm tờ!
Chai ni-tơ-rô gli-xê-rin
 Một hôm, trên một chuyến tàu đi Đi-tơ-roi. Như thường lệ, em trò chuyện với hành khách để lấy tin viết báo. Em hỏi một viên đại uý:
- Chú này, quân ta có cần chất nổ không nhỉ?
- Quân ta thì thiếu gì thứ ấy.
- Nhưng chắc chưa mạnh bằng thứ mà cháu phát minh ra đâu, cháu phải đặt tên cho nó là “Thần chết của kẻ thù” cơ đấy!
Viên đại uý vui vẻ hỏi:
- Thế cơ à, vậy chất nổ đó của em đâu?
Để trả lời, Tôm rút trong túi ra một cái chai:
- Đây, nó đây ạ.
- Em làm bằng những chất gì?
- Bằng axit sunfuric, axit nitơric và glixêrin.
Tôm hãnh diện trả lời về phát minh của em. Nhưng viên đại úy vừa nghe hết câu đã đứng bật dậy như ngồi phải gai và nói như thét:
- Thế này là nitơrô – glixêrin à? Cẩn thận, kẻo tất cả nổ tung lên bây giờ!
 Mọi người trên tàu nhốn nháo, ngơ ngác. Nỗi sợ hãi hiện lên mọi khuôn mặt, nhất là các bà. Người lo sợ nhất là bác Nen-xơn vì bác phải chịu trách nhiệm về các hành khách. Viên đại uý vừa quát bác Nen-xơn vừa chỉ cái chai đang còn trong tay Tôm:
- Đỗ tàu lại! Phải ném ngay cái chai quái quỷ này đi!
 Bác Nen-xơn cuống người vì tiếng quát của viên sĩ quan và vì sự việc xảy ra quá đột ngột. Bác vội chạy qua các toa tàu đến buồng lái ra lệnh cho người lái tàu:
- Đỗ lại! Đỗ lại! Nổ chết cả bây giờ!
 Người lái tàu sợ hãi liền hàm ngay tàu lại đúng trên một chiếc cầu bắc ngang sông. Viên sĩ quan lấy dây buộc vào cổ chai rồi bắt Tôm đưa chai qua cửa sổ từ từ thả xuống nước. Mọi người thở phào nhẹ nhõm… Có một bà sợ quá ngất đi, lay mãi mới tỉnh. Bác Nen-xơn rít qua kẽ răng:
- Thằng trời đánh! Suýt nữa thì mày làm nổ tàu!
 Rồi bác ra lệnh cho Tôm đến Po Hu-rôn phải dọn hết mọi đề lề xuống và cút ngay tức khắc. Em hết sức van nài nhưng bác ta không chuyển. Tôm buồn bã thu dọn các dụng cụ thí nghiệm ở trong góc toa. Trong khi gói ghém, em lỡ tay đánh đổ chai sunfur và lửa bén cháy rất nhanh, cơ hồ cháy toa. Nhưng một hành khách đã dốc cả thùng sữa tươi vào và dập tắt được ngọn lửa.
Giận quá, bác Nen-xơn dang thẳng tay tát ngay vào má em và quát:
- Cút ngay lập tức, đồ quỷ!
 Thất vọng tràn đầy, cậu bé Ê-đi-xơn chẳng nói được một lời. Tai em ù đặc và đau nhói như có chiếc dùi xuyên qua.
 Đến ga Po Hu-rôn, người trưởng tàu ném không thương tiếc mọi thứ đồ lề của em xuống sân ga: ống nghiệm, chai, lọ, v.v… Tất cả vỡ loảng xoảng… Xong, hắn phũ phàng đẩy Tôm xuống và còn đá theo em một cái.
 Tôm đau đớn nhìn công phu chắt bóp của mình đã tan vỡ trong chốc lát cùng với bao ước mơ và dự định táo bạo bấy lâu xây đắp. Tai em càng đau buốt. Tôm trở về nhà kiệt sức và mệt mỏi, lòng chán ngán. Bác sĩ Pen-đe đã khám tai và cố chữa cho em, nhưng vô ích. Màng tai đã bị thủng vì cái tát quá mạnh của gã Nen-xơn, và từ đây cho đến suốt đời, tai trái của Tôm hoàn toàn bị điếc hẳn.
Những chuyện không may
 Trước đây, khi Tôm còn đang được mọi người coi là “cậu bé thần đồng”, là “thiên tài” thì mọi lời âu yếm người ta dành để gọi em: nào “Tôm, con hươu sao ở Mi-si-gân”, “Chú bé có những tư tưởng lớn”… Nhưng giờ đây, trước mặt họ, em chỉ là một thằng bé thần kinh không bình thường. Dù sao thì Tôm cũng có hổ thẹn về việc bị đuổi vừa rồi. Nhưng hiện tại điều cần thiết nhất đối với “nhà bác học”, “nhà vật lý”, “nhà báo” Tôm là làm thế nào xoay xoả với những mảnh vụn của phòng thí nghiệm và của máy in bị vứt từ trên toa tàu xuống? Liệu có chữa được không? Tôm đứng gãi đầu ngẫm nghĩ giữa đống đổ nát ấy. Chữa thì chắc là chữa được, nhưng để chúng ở đâu bây giờ? Đó là vấn đề khó.
 Có lẽ cái góc kín đáo nhất vẫn là căn hầm cũ ở nhà cha mẹ… Nghĩ thế, em liền chở mọi thứ về đó và chỉ trong hai ngày, mọi thứ được sửa chữa xong. Chăm chỉ và không nản chí, em lại bắt tay vào việc. Tôm rủ một bạn nữa chạc tuổi em tên là Giêm Uốt có tài viết chữ rất đẹp và kể chuyện rất dí dỏm, cùng cộng tác với em. Đầu tiên, các em đổi tên tờ báo là “Pôn Pơ-rai”. Đó là tên một nhân vật trong một vở kịch được mọi người rất ưa thích. Công với tài khôi hài của Giêm Uốt, báo ra thêm mục “Chuyện địa phương” khiến mọi người càng thích thú. Ký giả nhỏ tuổi ấy viết rất khéo, người đọc ai cũng phải cười bò ra. Có mục đó, tờ báo vui hẳn lên và bán thật chạy.
 Nhưng, một hôm, không biết thế nào Giêm Uốt lại đi châm biếm một người trong phố. Người này có thói quen ngồi ở quán uống rượu và rình mò mọi người. Những người xem báo nhận ra hắn ta và cười với nhau một cách rất khoái trá. Người ấy giận lắm, tính chuyện trả thù. Một buổi chiều, hắn ngồi rình Tôm bên bờ sông Xanh Cơ-le. GặpTôm, hắn túm lấy:
- Thằng nhãi con, đứa nào dám làm nhục tao trên cái tờ “báo biếc” ấy của mày, hở?
- Tôi không biết, bài đó là của một người vô danh gửi đến…
- À, mày không chịu tiết lộ nó ra hả? Được, tao sẽ cho mày một bài học để mày nhớ đời!
Người ấy bèn túm cổ “ông giám đốc toà soạn” nhỏ tuổi, nhấc bổng lên rồi ném mạnh xuống dòng nước giá lạnh. Sau trận tắm bất đắc dĩ ấy, Tôm “đóng cửa” tờ báo và từ đấy thôi không bao giờ nghĩ đến chuyện làm báo nữa. Tôm thử làm một vài việc khác nhưng không thành. Cũng có lúc em thấy nản, nhưng dù sao vẫn phải kiếm sống. Em đến nhà một bác thợ rèn để xin làm. Bác ta làu bàu bảo:
- Ở đây không cần những kẻ loạn trí!
 Bị nhục mạ, em bỏ đi. Lang thang thế nào, em lại vào đúng nhà thằng Giô, bạn cùng lớp trước kia để xin việc làm ở cửa hiệu của cha nó. Lão chủ hiệu cười hề hề bảo Giô:
- Này, Giô, xem này, thằng rồ Tôm đang muốn vào làm thằng nhỏ trong cửa hiệu nhà ta đây này!
- Thế nào, con, có nên bảo nó cút đi không nhỉ?
Thằng Giô mỉa mai Tôm:
- Thế nào, mày chưa thành triệu phú à?
Bị xúc phạm, Tôm quay phắt đi sau khi đã trả lời:
- Được, rồi mày sẽ thấy tao trở thành triệu phú!
 Ngày này sang ngày khác, Tôm đi khắp nơi, khắp chốn tìm việc. Nhưng ở đâu người ta cũng từ chối khéo léo hay trả lời thẳng thừng “nhà báo” quen thuộc:
- Chúng tao không cần những thằng điên như mày!
 Cuối cùng, tuyệt vọng em trở về nhà, không việc làm, mệt mỏi. Tôm không thể nào chịu đựng được nữa dù chỉ một lời của những con người độc ác, tàn nhẫn, ích kỷ và hẹp hòi ấy. Em có ý định trốn đi Đi-tơ-roi kiếm việc. Chỉ có mẹ là người duy nhất khuyến khích em thôi vì bà thấy con bà gặp quá nhiều rủi ro và cũng thấy con ôm ấp rất nhiều hoài bão, những hoài bão mà bà chỉ mơ hồ cảm thấy rất đẹp, rất có ích, rất nên làm, nhưng bà cũng không hiểu nổi đó là những gì.
 Một buổi chiều, khi ông Ê-đi-xơn bảo Tôm phải vứt tất cả mọi thí nghiệm của em ở trong căn nhà hầm ra thì em quyết định bỏ nhà ra đi. Trời mưa tầm tã. Tôm viết cho mẹ mấy dòng thư, xin mẹ tha thứ cho em là ra đi mà không chào mẹ, em nhờ mẹ hôn chị Ta-ni-a hộ em. Tôm đặt bức thư lên bàn rồi băng mình vào trong mưa gió.
Chiếc gương của hiệu tạp hoá
 Khi Tôm vừa ra đi thì bà Ê-đi-xơn đột nhiên nổi cơn đau bụng dữ dội. Ở nhà chẳng có một ai. Ông Ê-đi-xơn đang đi bán rơm, còn bọn trẻ con chạy chơi đâu hết chẳng thấy có một đứa nào. Lăn lộn trên giường, bà gọi mãi Tôm. Giờ đây, Tôm đã bỏ đi gần tới ga. Ta-ni-a vừa ở nhà bạn về, nghe tiếng mẹ gọi, cô chạy vội đến hỏi:
- Gì thế mẹ, mẹ làm sao thế?
Bà thều thào:
- Gọi em Tôm và bác sĩ Pen-đe lại đây ngay cho mẹ…
 Ta-ni-a hốt hoảng chạy xuống nhà dưới và thấy bức thư của Tôm để ở trên bàn. Đọc thư, nước mắt cô tuôn giàn giụa trên má. Cô định chạy lên đưa thư cho mẹ xem, nhưng nghĩ sao, cô lại lao bổ ra ngoài mưa chạy về phía ga. Con đường sao mà dài thế, tưởng chừng không bao giờ đến cả. Đến sân ga thì vừa may cô trông thấy Tôm đang đứng đó nài bác lái tàu cho đi nhờ đến Đi-tơ-roi. Nhưng bác ta chối từ:
- Không được đâu cậu em ạ. Người ta sẽ phạt tôi mất. Họ mà bắt được chở người lạ trong toa đầu máy là họ đuổi tôi ra đấy. Cậu muốn thế chăng?
Tôm đang lưỡng lự chưa biết tính sao thì nghe tiếng Ta-ni-a gọi.
- Có việc gì thế, chị Ta-ni-a?
Ta-ni-a hớt hải, người ướt đẫm:
- Mẹ đang đau lắm em ạ. Phải đi tìm bác sĩ Pen-đe và báo tin cho cha và anh Bin biết ngay.
Nghe tin ấy, lòng Tôm đau thắt lại. Em hối hận vì đã bỏ mẹ đi trong lúc này. Lam thế nào bây giờ? Phải quyết định ngay kẻo mẹ nguy mất!
- Chị lên tàu đi Đi-tơ-roi ngay tìm anh Bin. Còn em, em đi tìm bác sĩ Pen-đe. Cha chắc cũng sắp về thôi.
 Tôm chạy vào ga vay tiền một điện báo viên cho Ta-ni-a lấy vé, xong em chạy như bay đến nhà bác sĩ. May sao, bác sĩ có nhà. Cả hai vội vã đi ngay. Mưa vẫn như trút nước…
- Mẹ ơi, bác sĩ đến rồi, mẹ có đỡ tí nào không mẹ?
- Ôi, Tôm của mẹ, con yên tâm, mẹ sẽ khỏi ngay thôi.
 Bác sĩ Pen-đe khám bệnh cho bà và chuẩn đoán bà bị đau ruột thừa cấp tính. Phải mổ ngay mới cứu được. Nhưng trời cứ tối dần, mà dưới ánh đèn dầu thì làm sao mà mổ được. Chờ đến sáng thì muộn lắm, người bệnh sẽ chết. Bác sĩ đi đi lại lại trong phòng chưa biết tính cách nào để kịp cứu bệnh nhân.
Trong khi đó, Tôm ngồi trên giường bóp trán cho mẹ. Bà mẹ run rẩy, đau đớn bảo Tôm:
- Tôm ơi, con của mẹ đâu rồi, Tôm…
-Con đây, mẹ ạ.
-Con đi đâu vậy con?
Tôm thú thật với mẹ ý định bỏ nhà đi Đi-tơ-roi. Em bật khóc:
- Con giận cha, mẹ ạ. Con có viết cho mẹ mấy dòng để trên bàn nhà dưới.
Bà mẹ thều thào nói:
- Con ạ, mỗi khi tức giận con cứ viết hết ra một tờ giấy mọi suy nghĩ, mọi bực dọc của con, sau đó con xé đi. Con giận cha phải không? Khi nào con tức giận, tất nhiên con phải đổ cơn giận cho ai chứ… vì thế mà có cha mẹ, con ạ…
Chưa nói hết câu, bà lại đau quá ngất đi. Bác sĩ xem mạch cho mẹ. Tôm sợ hãi hỏi:
- Thưa bác sĩ, nếu không mổ ngay được thì có làm sao không?
Bác sĩ im lặng, Tôm chợt hiểu hết. Em kêu lên:
- Thế sao bác sĩ không mổ ngay đi!
- Không được em ạ, đèn dầu tù mù thế này mổ sao được?
- Thắp nhiều đèn lên có được không?
- Không được… mổ trong ánh sáng như thế này thì chẳng khác gì giết chết bà ấy. Nếu có đủ ánh sáng, chắc chắn là tôi sẽ mổ được cho mẹ em ngay.
 Thất vọng. Tôm ôm đầu suy nghĩ. Làm sao đây? Mẹ sẽ chết ư? Ôi, thật khủng khiếp! Không, mẹ em không thể chết được! Đột nhiên em nhìn thấy ánh đèn phản chiếu lại từ mảnh sắt trên tủ. Ánh đèn phản chiếu trông có vẻ sáng hơn chính ánh sáng thật của nó.
 Một tia sáng loá lên trong đầu óc Tôm: sao ta không mượn tấm gương lớn ở hiệu tạp hoá về nhà phản chiếu lại thật nhiều ánh đèn? Chắc chắn là sẽ sáng được tới gấp ba lần.
 Nghĩ sao, làm vậy. Em chạy ngay ra cửa hiệu tạp hoá. Nhưng… cửa hiệu đã đóng cửa, người chủ hiệu đã về nhà riêng. Không do dự em đập vỡ một khung cửa rồi chui vào mang tấm gương ra, đem về nhà. Một lát, tất cả các đèn lớn, đèn nhỏ trong nhà được thắp lên và đặt trước tấm gương. Xong xuôi, em sang phòng mẹ. Bác sĩ ngồi đó, lo lắng nhìn người bệnh. Em nói, giọng đầy tự hào:
- Bác sĩ ơi, đã có đủ ánh sáng rồi. Mời bác sĩ sang xem, sáng như ban ngày vậy!
- Cậu còn đùa được ư? Cậu không thấy tôi đang lo cho mẹ cậu à? -bác sĩ nói có vẻ giận.
Nhưng em đã lôi tay ông ta, buộc ông phải sang xem.
 Quả thật là sáng như ban ngày! Hai mươi cái đèn phản chiếu lên chỗ định dùng làm bàn mổ. Tất cả đều sáng loá. Ngạc nhiên và mừng quá đến mức không tin cả vào mắt mình, ông giơ tay vào vùng ánh sáng đó và sờ sờ nó để khẳng định rằng đó là sự thật. Nét mặt ông rạng rỡ hẳn lên:
- Cậu bé làm thế nào mà được như vậy đấy, hở cậu bé thần đồng?
 Tôm nhún vai im lặng. Trả lời ông thế nào đây? Chỉ có nét mặt em là sáng hẳn lên vì niềm vui mẹ em sắp được cứu sống. Bác sĩ ôm chặt em vào ngực và chúc mừng em:
- Cậu giỏi lắm! Thông minh lắm! Bây giờ thì tôi sẽ bắt đầu. Nào, đem hai chiếc khăn trải giường và một xô nước nóng ra đây, rồi chạy đi gọi thêm một bà hàng xóm sang giúp tôi một tay.
Một trận đòn oan
 Rạng sáng thì mổ xong. Bà Ê-đi-xơn đã thoát khỏi tay thần chết. Mệt quá, bác sĩ nằm vật trên chiếc đi-văng tạm nghỉ. Tôm ngồi ghé bên cạnh ông, mệt bã vì một đêm thức trắng lo âu.
- Nếu đêm qua, cậu không nghĩ ra cái trò ấy với tấm gương thì giờ đây mẹ cậu đã thành người thiên cổ!
 Nghe vậy, Tôm chợt giật mình nhớ đến tấm gương lớn lấy ở hiệu ông Gin-gơ-lê mà ông ta không biết. Em vội vàng vác tấm gương lại cửa hiệu để trả.
 Đến nơi, Tôm thấy mọi người đang xúm xít bàn tán quanh chỗ cửa bị đập vỡ. Ai cũng cho rằng kẻ trộm vào hiệu lúc đêm. Đin-gơ-lê đứng đấy đang kêu ầm lên:
- Tôi bị mất trộm! Thằng trộm đã phá cửa vào và lấy mất tấm gương. Tôi phải đi trình cảnh sát mới được!
Lúc ấy, Tôm vác gương lại. Vừa nhìn thấy Tôm, Đin-gơ-lê kêu lên:
- Kia, thằng trộm lấy gương của tôi đây rồi!…
Chẳng nói một lời, Đin-gơ-lê xông vào đánh em túi bụi. Chiếc gương tuột khỏi tay em vỡ tan. Chiếc gương vỡ càng làm hắn thêm cáu, hắn vớ lấy cái gậy và vụt em tới tấp. Tôm kêu ầm ĩ, nhưng chẳng ai vào can giúp em. Vừa may, khi ấy ông Ê-đi-xơn đi bán rơm trở về. Thấy Đin-gơ-lê đang đánh con mình, ông bèn nhảy từ trên xe ngựa xuống túm lấy tên chủ hiệu nhẫn tâm ấy. Ông đánh con thì được nhưng kẻ khác thì không! Ông quát lão Đin-gơ-lê:
- Sao ông đánh nó?
- Vì nó ăn cắp và làm vỡ gương của tôi.
Ông Ê-đi-xơn liền hỏi Tôm, khi ấy em đang sắp sửa chạy về:
- Đúng không?
- Con lấy vì…
- Được, về nhà rồi tao sẽ hỏi tội mày. Bây giờ thì cút!
Lão Đin-gơ-lê được thể kêu lên:
- Ông phải đền tôi mười hai đô-la về chiếc gương vỡ và ba đô-la về chỗ cửa vỡ.
Một người nào đó bảo:
- Này, ông Đin-gơ-lê… phải công bằng chứ! Cái gương vỡ là do ông đánh thằng bé nên mới rơi vỡ chứ đâu phải tại nó.
- Đúng, đúng như thế đấy! – Nhiều người cùng nói một lúc.
- Có đền thì chỉ đền cái cửa thôi.
Lão chủ hiệu cự lại:
- Không thể được. Nó ăn cắp gương của tôi nên tôi phải đánh nó.
- Nó ăn cắp mà lại còn mang đến trả à?
- Tôi không biết. Cứ phải đền cho tôi mười lăm đô-la, chỉ có thế thôi.
- Được, tôi sẽ đền mười lăm đô-la cho ông, nhưng trước hết tôi phải biết mọi việc xảy ra như thế nào đã.
- Thôi được, – lão chủ hiệu nói. – Tôi sẽ chờ ông đến chiều, nếu không tôi sẽ đi trình cảnh sát!
Ông Ê-đi-xơn quay lưng lại không trả lời, trèo lên xe quất mạnh ngựa về nhà. Đến sân, ông gặp bác sĩ Pen-đe đi ra. Bác sĩ thấy ông thì mỉm cười:
- Thế là thoát rồi… Mọi việc xong xuôi cả rồi…
- Ai thoát ạ? – ông Ê-đi-xơn hỏi vì ông tưởng bác sĩ nói đến Tôm.
- Bà nhà ông chứ ai nữa. Tôi đã mổ kịp cho bà ấy đêm qua rồi. Cả đêm mọi người đều thức trắng. Nếu cậu Tôm không tìm cách lấy gương tăng ánh sáng thì không tài nào có thể mổ cho bà nhà được. Như vậy… chắc bà ấy đã bị nguy mất rồi…
- Ông bảo rằng nhờ có cháu Tôm giúp ông phải không?
- Vâng. Thật là một cậu bé thông minh. Tôi rất mừng cho ông về cậu ấy.
Ông Ê-đi-xơn mở tròn mắt ngạc nhiên:
- Ông bảo sao? Thế mà tôi lại tuởng là nó đi ăn cắp gương của người ta. Cám ơn bác sĩ, cám ơn!… Giờ thì tôi đã hiểu ra rồi.
Chiếc cầu gãy
 Trưa hôm sau, trước cửa ga có một đám người đứng ngơ ngác, im lặng, nét mặt ai cũng lộ vẻ lo âu, buồn rầu. Có chuyện gì vậy?
 Ở ga vừa nhận được điện báo chiếc cầu trên đường Po Hu-rôn Đi-tơ-roi bị gãy mà tàu số 7 đương lao nhanh vùn vụt trên con đường đó. Trên tàu có nhiều người, trong đó có cả Ta-ni-a và anh Bin. Tất nhiên chẳng một ai trên tàu đó biết tính mạng họ đang bị đe doạ; mà tất cả những ai biết tin cầu gãy chưa biết làm thế nào báo cho viên trưởng tàu – Nen-xơn biết để hãm tàu lại. Lo lắng, run sợ. Mọi người sau khi đã kêu khóc và chạy lung tung hốt hoảng trên sân ga chán lại đứng túm tụm từng đám, im lặng. Có tiếng khóc sụt sịt… Ai cũng có người thân hay bè bạn trên chuyến tàu bị đe doạ ấy. Tôm ra ga đón chị Ta-ni-a, thấy thế liền len lỏi qua các đám đông vào tận buồng điện báo, hỏi:
- Cái gì thế? Cái gì thế?
Một người nào đó trả lời:
- Nước cuốn mất cầu ở Hi-ô rồi.
 Tôm sững người. Trước mắt em, thoáng hiện ra hình ảnh chị Ta-ni-a và anh Bin. Nếu hai người này mà bị thế nào thì gia định em sẽ ra sao; và còn tính mạng mẹ nữa, mẹ vừa thoát chết đêm qua xong. Không, không thể như thế được! Tim Tôm đập rộn lên, lo sợ và đau đớn. Làm gì để cứu được họ đây? Bao nhiêu là người trên chuyến tàu này! Óc em căng thẳng, suy tính. Tay em túm lấy lông mày bên phải mà giật như thói quen khi có điều gì suy nghĩ căng thẳng. Lúc ấy, một đầu tàu đi qua chợt kéo một hồi còi dài, một hồi còi ngắn để dồn đường. Tiếng còi ấy làm em nẩy ra một kế hoạch cứu nguy cho đoàn tàu số 7. Em gạt mọi người ra, chạy đến buồng điện báo kêu lên:
- Tôi sẽ báo cho tàu dừng lại, tôi sẽ báo cho bác Nen-xơn biết mà ngừng tàu lại!
Có mấy người mắng Tôm:
- Cút ngay, thằng mất trí!
 Tôm không nản, em chạy như bay đến chiếc đầu máy và nhanh nhẹn leo lên bậc toa. Bác lái tàu chưa đoán ra em định làm gì liền quát:
- Thằng bé kia, trèo lên đây làm gì?
 Chẳng trả lời, em chạy đến bên chiếc tay quay để kéo còi, em kéo từng hồi còi theo tính hiệu moóc-xơ. Một điệp báo viên ở ga nghe thấy tiếng còi chợt hiểu ra ý định thiên tài ấy của em: kéo còi đánh moóc-xơ cho đoàn tàu sắp bị nạn. Đúng là chỉ có cách ấy mà thôi! Anh ta chạy vội ra chiếc đầu máy, leo lên hỏi Tôm:
- Nhưng có ai hiểu moóc-xơ ở đó không em?
- Có chị Ta-ni-a. Chị ấy biết moóc-xơ và sẽ báo tin…
- Thế thì lên đường ngay!
 Mọi người vui mừng nhìn theo chiếc đầu tàu hối hả lao đi với niềm hy vọng mong manh.
Tôm liên tiếp báo tin dữ ấy bằng tín hiệu moóc-xơ cho Ta-ni-a, hết hồi này sang hồi khác…
… Trong khi đó, đoàn tàu số 7 vẫn thản nhiên lao nhanh về phía chiếc cầu gãy. Ta-ni-a đang lim dim ngủ, ngả đầu vào vai anh Bin. Bỗng nhiên, cô nghe mơ màng có tiếng còi gọi đúng tên cô. Lạ nhỉ? Mình mơ chăng? Cô lắng nghe… đúng, cả một câu dài… Cô cố nghe một lần nữa. Rõ ràng là những tiếng còi đang gọi tên cô: “Ta-ni-a, hãm tàu lại, cẫu gẫy”… Đúng Tôm rồi, chỉ có Tôm thôi. Ta-ni-a chạy vụt ra cửa toa tìm Nen-xơn.
- Bác ơi, Tôm đánh điện bảo hãm tàu lại ngay, cầu gẫy đấy!
 Nhưng lão Nen-xơn lườm em một cái rồi quay đi, thản nhiên bảo mấy người tò mò đang ngạc nhiên nhìn lão ta và Ta-ni-a:
- Hừ, nó cũng dở người một tí như tất cả những người họ Ê-đi-xơn ấy mà…
Ta-ni-a hét lên:
- Hãm tàu lại, cầu gãy, ông không nghe thấy à? Cầu gẫy, tàu sẽ lao xuống sông!
 Hành khách nghe thấy thế thì hốt hoảng nháo nhác lên. Lúc bấy giờ Nen-xơn đành phải kéo cái phanh hãm mắc ở mỗi toa – cũng chính Tôm là người đã làm cái khoá hãm này hồi em còn đang bán bánh kẹo trên tàu. Tàu được hãm lại cách cầu khoảng một kilômét rưỡi và bắt đầu chạy từ từ, thận trọng tiến về phía cầu. Hành khách đều muốn xem tin Ta-ni-a báo có đúng hay không. Quả thật, cầu bị nước cuốn trôi. Lúc này mọi người mới khiếp sợ trước cái tai hoạ mà ít phút trước đây họ còn cho là sự tưởng tượng của một cô bé mơ ngủ. Bên kia cầu là chiếc đầu tàu do bác Pao-ơ lái, cạnh bác là Tôm.
Nen-xơn bác loa tay gọi:
- Hoan hô bác Pao-ơ! Nhờ có bác mà chúng tôi thoát chết!
Bác Pao-ơ trả lời:
- Không, đó là nhờ Tôm Ê-đi-xơn đấy!
Ta-ni-a rất hãnh diện về Tôm, em bắc loa tay gọi:
- Tôm ơi, em là một anh hùng đấy!
- Không, chị mới xứng đáng, chị Ta-ni-a ơi!
Bác Pao-ơ cười vui vẻ:
- Niềm vinh dự này phải chia đều cho cả hai chị em chứ!
- Mẹ thế nào, Tôm?
- Đỡ rồi, đã kịp mổ ngay.
Bên này sông, một cuộc tranh cãi nổ ra. Bin hỏi Nen-xơn:
-Thế nào, ông thấy Tôm thế nào?
Nen-xơn bảo:
- Bao giờ tôi cũng bảo với mọi người rằng Tôm là một chú bé được việc, nó làm vinh dự cho cả tỉnh đấy. Ai cứ phản đối tôi xem, tôi thì tôi cho hắn một trận ngay.
 Ở Po Hu-rôn, mọi người nóng lòng như lửa đốt. Không nói ra, nhưng ai cũng nghĩ rằng chỉ ít phút nữa thôi tin dữ sẽ bay về với họ. Ông Ê-đi-xơn, trông già hẳn đi, đứng tựa vào một chiếc cột, mặt ủ rũ, lòng ông trống rỗng. Ông có hai đứa con thân yêu trên chuyến tàu đáng nguyền rủa kia. Nhưng tin mừng đã quay lại, đầu tàu mang Tôm đi đã trở về báo rằng tàu số 7 đã kịp thời dừng lại nhờ sáng kiến tài tình của Tôm. Tất cả mọi người hò reo vui sướng, còn ông Ê-đi-xơn thở phào nhẹ nhõm và mỉm cười. Mọi người ùa lại phía Tôm, tung em lên cao, nắm chặt tay Tôm và hôn em tới tấp. Tôm trở thành người anh hùng ngày hôm đó.
Ông trưởng ga, sau khi cảm ơn và chúc mừng Tôm rồi, liền đề nghị:
- Cháu có muốn vào làm điện báo ở đây không?
- Thế thì tốt quá, xin cảm ơn ông.
- Vậy từ ngày mai, cháu có thể bắt đầu làm việc ngay. Hiện giờ, có một chỗ trống và ta sẽ ghi tên cho cháu.
- Cháu cảm ơn lòng tốt của ông, thật là vừa may cho cháu.
Lúc đó ông Ê-đi-xơn cũng đến với con. Ông hôn lên hai má Tôm, ôm lấy cậu và bảo:
- Cha tự hào về con! Con đã làm nhiều điều khiến cha phật ý nhưng con cũng đền đáp lại xứng đáng.
- Cha đã rõ câu chuyện về cái gương chưa?
- Rồi, bác sĩ Pen-đe đã kể cho cha nghe rồi.
Tôm sa sầm mặt lại:
- Con đã bị một trận đòn oan.
Người cha nắm lấy tay con dắt đi, thở dài:
- Rồi ta sẽ tính nợ với lão Đin-gơ-lê sau. Cha chưa chịu đâu. Nào, ta đến chỗ hắn trả nợ cho hắn.
- Vâng, ta đi cha ạ!
Hai cha con kiêu hãnh đi trong niềm mến phục của mọi người. Cả thành phố biết chuyện cứu tàu của Tôm. Đến cửa hàng lão Đin-gơ-lê, ông Ê-đi-xơn hỏi:
- Thế nào, tôi nợ ông bao nhiêu?
-Tôi đã nói rồi đấy: cái gương mười hai đô-la, cái cửa ba đô-la.
- Thế nghĩa là mười lăm đô-la chứ gì? Đây, cầm lấy! – ông đưa mười lắm đô-la cho hắn – Nhưng còn trận đòn thì sao?
Lão Đin-gơ-lê cười nhăn nhở:
- Trẻ con đôi khi cho chúng hai, ba trận đòn có hại gì đâu?
- Tất nhiên là chẳng có hại gì. Nhưng đánh nó là tao chứ không phải mày. Hiểu không!
Rồi ông Ê-đi-xơn túm lấy cổ áo lão Đin-gơ-lê quai cho hắn hai quả đấm ngã sóng soài. Xong ông lại dựng lão dậy, giáng cho lão hai cái tát như trời đánh nữa.
Thằng Giô, con lão Đin-gơ-lê, thấy bố nó bị đánh kêu ầm lên:
- Ai cứu với! Ai cứu với!
Nhưng Tôm đã túm lấy nó và ném nó vào thùng bột làm cho từ đầu đến chân nó bột phủ trắng xoá như vừa ở máy xay bột ra. Vài người tò mò đứng lại xem. Một lúc sau, cảnh sát khu vực tới.
- Cái gì vậy? Cái gì mà ầm ĩ lên thế?
Ông Ê-đi-xơn liền kể cho mọi người nghe. Vừa khi ấy, bác sĩ Pen-đe đi qua. Thấy vậy, bác sĩ liền kể lại cho cảnh sát trưởng nghe.
- Cậu bé này, bằng trí thông minh của mình đã cứu mẹ thoát chết. Đáng lẽ người ta phải nêu gương cậu ấy về lòng thương mẹ thì đằng này cậu ấy lại bị đòn như một con chó.
Một vài người thêm:
- Cậu ấy đã cứu cả đoàn tàu nữa cơ đấy!
Nghe xong, cảnh sát trưởng quay bảo lão chủ hiệu:
- Ông Đin-gơ-lê, thế thì cũng đáng thôi. Tôi chẳng thể làm thế nào khách được. Lần sau thì ông nên hỏi trước đã nhé, kẻo lại còn bị nặng hơn.
*
*     *
Mấy ngày sau, Tôm đi Đi-tơ-roi để nhận chân điện báo viên.
Cha, chị Ta-ni-a, anh Bin và vài người bạn thân của gia đình đưa tiễn Tôm.
Mẹ Tôm không ra ga được vì bà chưa khoẻ hẳn và phải nằm yên, tránh cử động, trên giường bệnh. Tàu đến, Tôm lên toa cuối cùng, đứng chỗ cuối toa nơi mỗi lần đi tàu em thích đứng nhất. Ta-ni-a vẫy vẫy chiếc mùi soa:
- Tạm biệt! Em đi mạnh khoẻ và thành công tốt đẹp nhé!
Tôm trả lời:
- Tạm biệt! Hôn mẹ thật nhiều hộ em, chị Ta-ni-a nhé!
Cha em dặn với:
- Nhớ viết thư con nhé!
- Hằng ngày con sẽ đánh điện cho cả nhà.
Tàu chuyển bánh… Người và vật ở Po Hu-rôn nhỏ dần rồi khuất hẳn.
 Tôm thấy lòng buồn bã, mi mắt nặng như muốn khóc. Nơi ấy, cậu bé Tôm đã để lại cả thời thơ ấu, cay đắng nhiều nhưng cũng không phải ít sướng vui; và bây giờ cậu ra đi mở con đường đầu tiên trong cuộc đời cậu giữa những con người trong xã hội.

Nhận xét